Công Nghệ

Sốt mò là gì?

Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Thọ thông báo rằng khoa Nội Hô hấp – Tiêu hóa đã tiếp nhận một bệnh nhân nam 42 tuổi, trước đó sức khỏe của bệnh nhân là tốt, làm nghề nông dân. Bệnh nhân nhập viện với triệu chứng sốt cao vào ngày thứ 7.

Theo thông tin, bệnh nhân nhập viện trong tình trạng tỉnh táo và có triệu chứng đau ngực khi thở vào. Sau khi kiểm tra tiền sử bệnh, bệnh nhân cho biết đã có triệu chứng sốt kéo dài trong 7 ngày, đau đầu, không nôn, mệt mỏi. Bệnh nhân đã thử điều trị bằng cách truyền dịch tại nhà trong 3 ngày nhưng không có cải thiện, vì vậy sau một vài ngày mới quyết định đi vào viện và nhập vào Bệnh viện Khoa Nội Hô hấp – Tiêu hóa.

Người bệnh được nhập viện sau đó được chỉ định xét nghiệm cấp cứu và chụp CT ngực không sử dụng thuốc cản quang. Bệnh nhân tỉnh táo, thể trạng trung bình với chỉ số BMI là 22,1 kg/m2. Da niêm mạc có màu hồng, trên da vùng hố nách bên phải có một vết loét khô sạch màu đen có kích thước khoảng 1 x 0,5cm, không có ban đỏ và không có hạch to. Bệnh nhân có sốt cao là 38,5°C, huyết áp: 120/70mmHg, nhịp tim: 90 lần/phút. Bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi và khi khám các cơ quan không phát hiện bất thường.

Sốt mò là gì?

Chẩn đoán: Sốt mò có các biến chứng ( viêm phổi, viêm gan, giảm bạch cầu).

Bệnh nhân được điều trị bằng truyền dịch, kháng sinh Doxycyclin 0,1g x 02 viên/ngày, vitamin và bổ gan. Sau 3 ngày, bệnh nhân đã giảm sốt và được xuất viện sau 05 ngày điều trị.

Bàn luận

Việt Nam là nơi có nhiều trường hợp mắc sốt mò, đặc biệt là ở những người trồng ruộng và sống ở vùng nông thôn. Vì vậy, cần quan tâm và thăm khám kỹ các triệu chứng như mệt mỏi, phát ban, sưng hạch. Đồng thời, cần chú ý kiểm tra kỹ các vùng như nách, bẹn, quanh hậu môn, nếp gấp sau gáy, sau tai, vú, nơi có nguy cơ bị muỗi đốt.

HOT 👉👉:  Vàng 14K là gì? Vàng 14K có nên mua hay không?

Cần xem xét khả năng sốt mò trong trường hợp bệnh nhân có tổn thương đa cơ quan như gan, thận, phổi, tiểu cầu, …

Khi chẩn đoán, cần sử dụng kháng sinh đúng và trong thời gian đủ.

Các người dân làm việc ngoài ruộng hoặc nơi đầy bụi cần chú ý đến trang phục bảo hộ. Họ nên mặc quần áo dày, đi tất/úng và sử dụng thuốc xoa trên người để tránh bị côn trùng đốt. Nếu xuất hiện các triệu chứng như sốt đột ngột, xuất huyết, mệt mỏi, đau người, phát ban, nổi hạch, cần quan sát kỹ trên cơ thể có nốt mò đốt và đến cơ sở y tế để được khám và điều trị.

Định nghĩa sốt mò

Bệnh sốt mò, còn được gọi là sốt triền sông Nhật Bản, sốt bụi rậm, sốt phát ban rừng, được gây ra bởi một loại vi khuẩn có tên Orientalis tsutsugamushi, thuộc họ Rickettsia. Vật trung gian truyền bệnh chính là ấu trùng bọ ve mò, được nhiễm mầm bệnh và mang vi khuẩn. Bệnh được truyền từ ấu trùng mò qua cắn con người và nước bọt là phương thức lây nhiễm duy nhất, không lây lan từ người sang người.

Sốt mò là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn Orientalis tsutsugamushi (thuộc họ Rickettsia) gây ra và lây sang người qua ấu trùng mò. Các loại ấu trùng mò này thường có các ký chủ trung gian là các loài động vật gặm nhấm, đặc biệt là chuột, chim hoặc gia súc, gia cầm.

HOT 👉👉:  Hướng dẫn khắc phục lỗi không bật được bong bóng chat trên Messenger

Sốt mò là tình trạng cơ thể tăng nhiệt đột ngột, thường đi kèm với triệu chứng như đau đầu, mệt mỏi, khát nước và cảm giác nóng bừng trên da.

Hình 3: Chu kỳ vòng đời của vi khuẩn Orientalis tsutsugamushi (Nguồn Yeon Joo Jeong, Bộ phận Y học nhiễm trùng).

Orientia tsutugamushi có đặc điểm sau: Là mầm bệnh nội bào bắt buộc phải lây nhiễm vào nhân tế bào nhân lên được. Trước đây, nó thuộc chi Rickettsia, nhưng hiện nay nó được phân loại thành một chi riêng biệt mang tên Orientia. Kích thước của nó là rộng 0,5-0,8 µm và dài 1,2-3,0 µm, có hình dạng giống que. Chúng có thể được nuôi cấy trong các tế bào đơn lớp và có độc lực cao, chỉ được xử lý trong phòng thí nghiệm an toàn sinh học cấp 3. Bộ gen của chúng có kích thước khoảng 2000kb và chúng thường được tìm thấy nhiều nhất trong nước bọt.

Triệu chứng sốt mò

Thời gian nhiễm bệnh từ 6 – 20 ngày (trung bình 10 ngày).

Khởi phát:.

Bệnh nhân bị các triệu chứng như sốt, đau đầu, đau cơ, ho, tiêu chảy, đau bụng buồn nôn và nôn, xuất hiện vết loét (Eschar) và nổi hạch ở vùng phát ban dát sẩn, đôi mắt đỏ. Trong trường hợp nặng, bệnh có thể gây nhiễm khuẩn huyết, viêm não, viêm phổi, viêm cơ tim và thậm chí dẫn đến tử vong.

Triệu chứng sốt mò bao gồm cảm giác nóng bừng trên cơ thể, đau đầu, mệt mỏi, cơ thể run rẩy, và có thể xuất hiện hạt mồ hôi.

Hình 5: Hình ảnh tổng quan và chi tiết về vết loét ở bệnh nhân sốt mò.

Hình A là một hình dạng chung, có vảy màu đen và được bao quanh bởi một vòng màu hồng. Trong khi đó, hình B là một hình ảnh được phóng đại 400 lần bằng phương pháp nhuộm HE trong mô học.

HOT 👉👉:  5 Cách tải video Facebook HD về điện thoại, PC miễn phí 2023

Triệu chứng sốt mò bao gồm cảm giác nóng bừng trên cơ thể, đau đầu, mệt mỏi, cơ thể run rẩy, và có thể xuất hiện hạt mồ hôi.

Hình 6: Hình ảnh tiến triển của vết loét theo thời gian ( nguồn: Jin Park, Evolution of Eschar in Scrub Typhus).

Cơ chế phát sinh bệnh:

Tỷ lệ tử vong từ 6,1% đến 25% tại Đông Nam Á.

Bệnh sốt mò không được lây từ người sang người, mà chỉ có thể lây qua vết cắn của con bọ chét nhiễm tsutsugamushi. Giai đoạn ấu trùng là thời điểm duy nhất có khả năng truyền bệnh cho con người.

Các ấu trùng này truyền bệnh cho con người bằng cách ăn chất lỏng trên da. Các tế bào nội mô của các cơ quan như da, tim, phổi, não, thận và tụy là đích của vi khuẩn tsutsugamushi. Vi khuẩn phát triển tại vị trí cắn, gây loét và hoại tử, tiến triển thành một vết phỏng và có thể gây sưng hạch. Bệnh sốt mò có thể lan vào nhiều cơ quan thông qua tế bào nội mô và đại thực bào, gây ra các biến chứng nguy hiểm dẫn đến tử vong.

Chẩn đoán

Kiểm tra chẩn đoán.

Chẩn đoán huyết thanh học:

Phương pháp Weil – Fleix được báo cáo lần đầu vào năm 1916 bởi Edmund Weil và Arthur Felix. Phương pháp này dựa trên sự phản ứng chéo xảy ra giữa các kháng thể trong giai đoạn nhiễm cấp tính với các kháng nguyên dòng OXK. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ cho độ nhạy và độ đặc hiệu thấp, lần lượt là 38% và 46%.

Phương pháp hấp phụ miễn dịch gắn men (ELISA) là một phương pháp sử dụng nguyên lý kháng nguyên-kháng thể để phát hiện sự hiện diện của một kháng nguyên hoặc kháng thể trong mẫu. Phương pháp này được mô tả bởi tác giả Peter Perlmann và Eva Engvall vào năm 1971.

HOT 👉👉:  Nguyên nhân và cách xử lý khi sạc pin laptop không lên phần trăm

Phương pháp xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA) được mô tả lần đầu tiên bởi tác giả Bozeman và đồng nghiệp vào năm 1963. Phương pháp này có ưu điểm là độ nhạy cao, tuy nhiên lại có thể phản ứng chéo với kháng thể của các loài Rickettsia. Hiện nay, việc tăng giá trị ngưỡng lên mức 1:128 đã được áp dụng để giảm tỷ lệ dương tính giả.

*Phương pháp trồng ghép vi khuẩn bệnh.

Vi khuẩn O. Tsutsugamushi là loại vi khuẩn kí sinh nội bào bắt buộc, nghĩa là nó chỉ có thể phát triển trong tế bào chủ bằng cách xâm nhập, tăng trưởng và nhân bản trong tế bào chất. Phương pháp để phân lập vi khuẩn này là sử dụng môi trường phôi gà, sau đó sử dụng phương pháp nhuộm giemsa để tìm mầm bệnh thông qua phản ứng kháng nguyên- kháng thể với huyết thanh đặc hiệu.

Phương pháp Polymerase Chain Reaction (PCR): được phát triển bởi tác giả Kary Mullis vào năm 1985 và hoàn thiện bởi Saiki vào năm 1988, dựa trên nguyên lý khuếch đại nhanh để tạo ra nhiều bản sao của các đoạn DNA mà không cần tạo dòng.

Kỹ thuật khuếch đại chuỗi gen lồng (Nested PCR) là một biến thể của PCR thông thường, trong đó sử dụng 2 cặp mồi thay vì 1 cặp mồi như bình thường. Quá trình phản ứng được tiến hành hai lần. Lần đầu tiên, phản ứng PCR được thực hiện trong khoảng thời gian từ 15 đến 30 chu kỳ sử dụng cặp mồi đầu tiên, nhằm mục đích khuếch đại gen dài hơn đoạn gen cần xác định.

Phương pháp khuếch đại chuỗi gen Realtime PCR là một kỹ thuật trong việc nhân bản DNA đích trong ống nghiệm, tạo ra hàng tỷ bản sao bằng cách sử dụng chu kỳ nhiệt và đánh giá kết quả khuếch đại ngay sau mỗi chu kỳ bằng cách thu nhận tín hiệu huỳnh quang.

HOT 👉👉:  Đánh giá iPhone XR: Liệu có còn đáng mua ở thời điểm năm 2022?

Chẩn đoán nhiễm O. Tsutsugamushi.

Chẩn đoán xác nhận.

Bệnh nhân có dấu hiệu sốt cấp tính và vết loét trên da hoặc có triệu chứng như đau đầu, phát ban, sưng hạch, tổn thương đa cơ quan gan, phổi, thận, suy hô hấp cấp.

Ca bệnh có thể: bệnh nhân lâm sàng nghi ngờ và có hiệu giá từ 1: 80 trở lên với kháng nguyên OXK bằng xét nghiệm Weil-Felix hoặc mật độ quang > 0,5 OD đối với kháng thể IgM bằng xét nghiệm ELISA.

Chẩn đoán ca bệnh xác định: phát hiện DNA của O. Tsutsugamushi trong máu toàn phần hoặc mô vết loét của bệnh nhân bằng kỹ thuật PCR; hoặc xác định sự thay đổi hiệu giả kháng thể trong mẫu huyết thanh hồi phục so với cấp tính bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp IFA.

Chẩn đoán phân loại.

Cần phân biệt giữa sốt phát ban và các bệnh khác như sởi, rubella, sốt xuất huyết Dengue, nhiễm leptospira, sốt rét ác tính, bệnh thương hàn, cúm,…

Điều trị

Điều trị đặc biệt.

Doxycyclin, cloramphenicol, azithromycin là những loại kháng sinh được khuyến cáo sử dụng. Việc sử dụng kháng sinh đặc hiệu sẽ giúp bệnh nhân hết sốt sau 2-3 ngày. Tuy nhiên, do các kháng sinh này có tác dụng kìm khuẩn, vi khuẩn O. Tsutsugamushi vẫn có thể tồn tại trong hạch bạch huyết và hệ liên võng nội mô, có thể tái phát. Vì vậy, cách sử dụng kháng sinh như sau:

Doxycyclin là loại thuốc hàng đầu để điều trị, được sử dụng với liều 100mg mỗi 12 giờ trong khoảng thời gian từ 7 đến 10 ngày.

HOT 👉👉:  Cloud Server là gì? Tìm hiểu tính năng và hoạt động của Cloud Server

Chloramphennicol có thể được sử dụng qua đường uống hoặc đường tiêm với mỗi ngày dùng 2g, chia thành 4 lần sử dụng trong khoảng 5-7 ngày hoặc cho đến khi sốt giảm trong vòng 2-3 ngày.

Azithromycin là một sự lựa chọn thay thế, được khuyến cáo sử dụng 500mg mỗi ngày trong khoảng 3-5 ngày. Nó cũng có thể được sử dụng cho trẻ em dưới 8 tuổi và phụ nữ mang thai.

Điều trị hỗ trợ.

Khi bị sốt, cần sử dụng phương pháp hạ sốt và điều trị bổ trợ để giải quyết các biến chứng như truyền dịch, tăng cường vận mạch, hỗ trợ hô hấp, truyền máu, truyền albumin, điện giải, lọc máu trong trường hợp suy thận, sốc nhiễm khuẩn và suy đa tạng.

Sốt mò là một căn bệnh nhiễm trùng cấp tính, do vi khuẩn O. Tsutsugamushi gây ra. Để phòng tránh bệnh, cần tiêu diệt ấu trùng mò và ngăn chúng cắn đốt bằng cách xử lý ổ dịch và phát quang bụi rậm. Người làm việc và sinh hoạt ở vùng có nhiều cây nên đề phòng bằng cách che chắn cẩn thận, thoa thuốc diệt côn trùng lên da và giặt quần áo sạch sau mỗi lần sử dụng. Nếu có triệu chứng sốt và nghi ngờ mắc sốt ve mò, cần đi khám ngay tại cơ sở y tế để tìm vết loét mò đặc trưng, từ đó chẩn đoán và điều trị chính xác. Cần nhớ không tự ý chữa bệnh tại nhà, vì nếu không được điều trị kịp thời, sốt mò có thể gây suy đa tạng và các biến chứng nặng, thậm chí dẫn đến tử vong.

Show More

Zini Blog

Zini Blog chuyên trang thông tin về chia sẻ kiến thức, Review thương hiệu – Khám phá cuộc sống – Kết nối sở thích

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button