Chó trong văn hóa Việt

Ví dụ: Kiều Oanh.
Chó được người ta gọi bằng nhiều tên khác nhau tuỳ theo hoàn cảnh. Gọi là “khuyển”, “cẩu” trong cách nói trung hoà; gọi là “cún” với màu sắc thân thương; gọi là “boss” theo cách gọi của dân mạng xã hội lại có vẻ miễn cưỡng, đùa cợt; gọi chúng là “mực”, “văn”, “vện”, “vàng”, “phèn” khi căn cứ vào hình dạng, màu sắc.
Bên cạnh đó, còn được gọi là “con cây” (mượn tên gọi một loài thú có hình dáng na ná với chó nhưng sống trong rừng) để khi nói “ăn thịt cây” sẽ đỡ phản cảm hơn “ăn thịt chó”, từ đó mới có kiểu nói dí dỏm là “hạ cờ tây” (hạ cây tơ). Trang trọng hơn một chút, người ta lại dùng ẩn ngữ “mộc tồn” (nghe rất văn vẻ) mà khi diễn giải ra, ai cũng thích: “Mộc” là “cây”, “tồn” là “còn” do vậy “cây còn” nói lay thành “con cây”,…
Bên cạnh đó, chúng ta còn có cách gọi ẩn dụ (một cách nói tránh) đối với loài vật này trong ẩm thực với những tên gọi khác: Vitamin Gâu gâu, Thực phẩm bổ dưỡng,…
Trong địa chi, chó được xếp thứ 11 và có tên gọi là “tuất” (âm Hán Việt) được sử dụng để chỉ thời gian và tuổi tác: Giờ tuất (từ 19 giờ đến 21 giờ), tháng tuất, năm tuất, tuổi tuất.
Do sống gần gũi với con người, chó được con người chú ý hơn cả trong hàng lục súc. Người Việt xưa tin rằng, chó là loài vật trung thành, mang lại nhiều may mắn nên có tục thờ chó đá trong dân gian. Theo đó, người ta chôn chó đá trước cổng nhà, đình, đền hoặc phủ và gọi chúng là Thần cẩu, cụ Thạch, quan lớn Hoàng Thạch để trừ tà, cầu phúc, cầu an bởi theo quan niệm xưa, chó chỉ coi được phần dương nên để “trấn âm”, cần phải có con chó canh giữ như là vị thần che chở, mang lại bình yên cho mọi người.
Chuyện dân gian “Chàng học trò và con chó đá” cho thấy lòng tin của người Việt xưa đối với biểu tượng Thần câu (chó đá). Thần câu thông minh, biết trước số mệnh của mọi người, đồng thời, Thần câu cũng rất gần gũi với con người. Bằng chứng là người Việt xưa dùng hình ảnh chó đá trong cách nói có hàm ý: Trơ như đầu chó đá (không tỏ thái độ, không phản ứng), Bóp chó đá ra cứt (chê bai người keo kiệt), Đánh chó đá vãi cứt (hành động của kẻ tàn ác),…
Trong quan niệm dân gian, người Việt xưa tin rằng chó là loài vật mang đến điều tốt lành, yên ổn và giàu sang. Vì vậy, có câu ngạn ngữ “Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì giàu”. Niềm tin này có thể bắt nguồn từ tiếng kêu “meo meo” của mèo mà nghe như “ngheo ngheo” và tiếng sủa “gâu gâu” của chó mà nghe như “giau, giau” (!). Điều này cũng được thể hiện trong kinh nghiệm đọc bàn tay của người: “Bàn tay gà bơi thì khó, bàn tay chó bơi thì giàu” – người có bàn tay giống gà bơi thì nghèo, còn người có bàn tay giống chó bơi thì luôn giàu có.
Khi nhắc đến loài chó, người ta thường nghĩ đến lòng trung thành của chúng. Chó không chê cha mẹ khó, không chê chủ nghèo; chúng là người bạn đáng tin cậy. Nếu lạc đường, hãy nắm đuôi chó; nếu lạc ngõ, hãy nắm đuôi trâu. Chó giữ nhà, gà gáy sáng.
Chó là một loài vật sống rất gần gũi với con người, trở thành đối tượng dùng để so sánh mỗi khi người ta muốn chuyển tải điều gì đó thuộc thế giới của con người.
Người Việt có những câu: Lơ đỡ như mặt chó giấy để chỉ bộ dạng ngây ngô, đơ đẩn, không linh hoạt; Lảm nhảm như chó nhai giẻ rách ngụ ý phê phán kẻ hay căn nhắc; Bơ vơ như chó lạc nhà để chỉ hoàn cảnh trơ trọi, cô đơn, không nơi nương tựa; Giật giật như chó tháng bảy miêu tả dáng đứng ngồi không yên, bồn chồn, bứt rứt; Chạy như chó phải lói là kiểu chạy cuồng cuồng vì hoảng sợ (lói là pháo làm bằng thuốc nổ nhồi vào ống dài, nổ to), Lầm bầm như chó ăn vụng bột miêu tả vẻ tức tối, bực bội, không nói ra; Làm như chó ỉa vãi ám chỉ làm ăn bôi bác, không gọn gàng, không hiệu quả; Co ro như chó tiền rươi chỉ dáng co rúm, sợ sệt;…
Như ta đã biết, trong tiếng Việt có một đặc trưng rất cơ bản của thành ngữ, tục ngữ là sử dụng hình ảnh ẩn dụ để nói về bài học đạo đức, cách đối nhân xử thế, kinh nghiệm dân gian. Trong phạm vi này, các giống loài sống gần con người, đặc biệt là loài chó, được sử dụng để tạo ra những câu thành ngữ, tục ngữ có ý nghĩa sâu sắc.
Ví dụ, để khuyên người ta cẩn trọng trong quan hệ người trên – kẻ dưới, không nuông chiều quá trớn, ta có Chơi cờ, cờ mắt, chơi chó, chó liếm mặt; cần tránh làm mất lòng người trên trong ứng xử với kẻ dưới, ta có Mắng chó chạm đến chủ, Đánh chó phải kiêng chủ nhà, Đánh chó phải ngó đằng sau.
Một số thành ngữ, tục ngữ khác cũng đề cập đến những khía cạnh đạo đức, cách xử sự của con người trong xã hội: Ăn không no, ngồi không yên (không đủ sống, không yên tâm); Ăn dầm cho đủ miếng, ăn hôi cho đủ mồm (áy chỉ người thô tục, tham lam); Ném xương cho chó cắn nhau (gây mâu thuẫn, bất hòa); Treo đầu dê, bán thịt chó (giả bộ, giả dối); Đuổi chó vào ngõ cùng (đẩy người ta vào thế bế tắc, dễ gây tai vạ); Quen chó chớ mó răng, quen voi chớ sờ ngà (đừng thấy thân quen mà không đề phòng); Lợn không cao, chó nào sua (gieo nhân nào, gặt quả ấy); Lợn chê chó có bọ (kẻ không thấy cái dở của mình mà hay chê người khác); Lên voi xuống chó (con người vốn thăng trầm); Chửi chó mắng mèo (lấy cớ chửi mắng đối tượng này nhưng thực chất là nói cạnh khoẻ người khác); Voi đú, chó đú, chuột chù cũng nhảy cẫng (chê bai người hay đua đòi, bắt chước một cách lố bịch); Năng nổ dạy chó leo thang (hăng hái tham gia mọi việc không đúng chỗ, đúng lúc); Làm người thì khó, làm chó thì dễ (khuyên người nên ăn ở theo đạo lý), Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng (ỷ vào thế lợi của mình mà bắt nạt người khác);…
Để phản ánh kinh nghiệm dân gian, hình ảnh con chó cũng được người Việt xưa đưa vào thành ngữ, tục ngữ, trở thành phương tiện chuyển tải tri thức dân gian. Chẳng hạn, kinh nghiệm dự báo thời tiết: Mở gà thì gió, mở chó thì mưa (khi chân trời có răng vàng hoặc đỏ là sắp có giông bão hoặc mưa to); Nắng tháng ba, chó già lè lưỡi (tháng ba là tháng có nắng đầu hạ gây mệt mỏi cho người, gia súc);…
Hoặc như kinh nghiệm trong chăn nuôi và mua bán, có những quy tắc sau: Giàu nuôi lợn nái, nghèo nuôi chó cái và gà con; Chọn chó đẹp theo thứ tự: Trắng – vàng – khoang – đốm; Bán bò mua chó, bán rồi mua mèo; Gà lấm lưng, chó sưng đồ là một kinh nghiệm về ăn uống của gà và chó; Nếu chó và mèo có lông khác màu và đuôi khác màu, thì chúng có thể gây hại cho chủ nhà; Bán gà vào ngày trời gió, bán chó vào ngày trời mưa; Măng sông, ếch giếng và chó nhà chùa là những thức ăn ngon và sạch.
Điểm đáng chú ý là trong ca dao, dân ca Việt, hình ảnh con chó rất thân quen, bình dị, không đậm “chất thơ” như chim nhạn, chim sáo, cánh cò, con cá,… Chẳng hạn, để gửi gắm tình cảm, sự tiếc nuối cho tình yêu không thành, người dân Thạnh Trị, Sóc Trăng có câu: “Chó chạy theo cả xóm, mà chỉ mỗi ta cô đơn”.
Con chó bơi qua dòng sông, lông con chó ướt làm con chó vẫy.
Em đã có chồng rồi, cần gì phải làm phiền?
Hoặc thúc đẩy, khích lệ lời.
Nhà em yêu thích kết hôn với một người đàn ông.
Củ lớn thì để mời làng.
Còn như anh em cùng nhau ăn chung.
Bao nhiêu anh trai ơi,
Để cho cún cưng chơi và trông nhà.
Đôi khi là bài học về đạo đức.
Chó đâu chó sủa chỗ không.
Cô gái nào đẹp mà chồng lại ghen?
Nói chung, do tính trung thành và sự yêu mến của con người, chó được nuôi dưỡng trong nhà và trở thành một loại vật cực kỳ gần gũi với người. Bởi vì sự gần gũi này, hình ảnh con chó thường xuất hiện rất nhiều trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam.